Qua 6 tháng đầu 2016, doanh số Toyota đạt 24.854 xe, tốc độ tăng trưởng 8%, chậm nhất trong các hãng xe con tại Việt Nam. Mức tăng chung của thị trường 31%, cũng cao hơn nhiều. Tuy tổng xe bán ra vẫn ở mức cao, nhưng Toyota đang dần mất lợi thế ở các phân khúc truyền thống. Fortuner, Vios và Innova là 3 điểm sáng mà hãng xe Nhật bấu víu để nuôi hy vọng tiếp tục dẫn đầu thị trường.
Lợi thế của Innova là doanh số vẫn chiếm 80% phân khúc MPV, chứng tỏ nhu cầu của khách hàng với dòng xe đa dụng gia đình vẫn cao. Cũng hiếm có mẫu xe nào tại Việt Nam, thế hệ cũ vẫn bán chạy dù đến sát ngày ra mắt thế hệ mới. Trong tháng 6, Innova bán tới 552 xe. Nhưng độ rộng phân khúc MPV đang co lại, vì khách chuyển sang các dòng xe có chức năng tương tự nhưng hợp thời hơn như SUV, crossover hay bán tải. Innova thế hệ mới ra mắt với sứ mệnh định vị lại thị trường.
Lợi thế của Innova là doanh số vẫn chiếm 80% phân khúc MPV, chứng tỏ nhu cầu của khách hàng với dòng xe đa dụng gia đình vẫn cao. Cũng hiếm có mẫu xe nào tại Việt Nam, thế hệ cũ vẫn bán chạy dù đến sát ngày ra mắt thế hệ mới. Trong tháng 6, Innova bán tới 552 xe. Nhưng độ rộng phân khúc MPV đang co lại, vì khách chuyển sang các dòng xe có chức năng tương tự nhưng hợp thời hơn như SUV, crossover hay bán tải. Innova thế hệ mới ra mắt với sứ mệnh định vị lại thị trường.
Toyota Innova thế hệ mới ra mắt tại Việt Nam ngày 18/7.
Toyota Innova thế hệ mới ra mắt tại Việt Nam ngày 18/7.
Innova thế hệ mới khi xuất hiện ở Indonesia, Ấn Độ hay Thái Lan là cuộc lột xác về thiết kế và công nghệ, lọt vào top xe bán chạy nhất ở mỗi thị trường. Những nét tạo hình trên xe chung ngôn ngữ với Fortuner và Hilux mới ở phần đầu, nhưng đuôi xe lại giống Camry Mỹ đời trước, một kiểu tổng hợp hơi chắp vá, thiếu ăn nhập. Đèn pha projector với dải chiếu sáng ban ngày dạng LED, bản V có thêm đèn chiếu gần LED. Ngoại hình chỉnh chu, cân đối và mang chất SUV hơn nhưng vẫn đậm nét châu Á, không thực sự đột phá.
Sau 10 năm Innova mới xuất hiện thế hệ thứ hai, nên những nâng cấp phải tách biệt hoàn toàn với thế hệ cũ. Kích thước xe tăng ở cả ba chiều, dài hơn 150 mm, rộng hơn 70 mm, và cao hơn 35 mm, chiều dài cơ sở giữ nguyên 2.750 mm. Thế hệ thứ hai nhìn trường xe hơn và mở rộng không gian nội thất, nếu không quan tâm tới chiều dài cơ sở, kích thước của Innova như bước lên một phân khúc.
Hiệu quả của tăng kích thước là không gian nội thất thoáng hơn nhiều. Trần xe cao thêm 10 mm, khoảng cách hàng ghế trước, sau tăng thêm 19 mm, hàng ghế hai cũng có thể trượt trên bản V.
Khi Innova xuất hiện vào năm 2006, khách hàng đón nhận lập tức vì mẫu xe này quá lạ với nội thất bọc da và gỗ, một tầm mới trong hạng bình dân lúc bấy giờ. Ở thế hệ thứ hai, Toyota vẫn giữ chất liệu này đồng thời thiết kế lại cabin theo hơi hướng hiện đại, tập trung vào tài xế, thêm đèn viền nội thất, có thể sẽ là tính năng ưa thích với những xe chuyên dùng chở khách ban đêm. Hãng xe Nhật hơi lạm dụng crôm nhằm mang tới vẻ cao cấp tuy nhiên lại gây rối mắt.
Innova mới mang hơi hướng xe dịch vụ và gia đình rõ rệt hơn khi hàng ghế thứ hai có thêm bàn nhỏ gập ở lưng ghế trước có thể dùng đựng nước và làm việc. Hệ thống điều hoà 2 giàn lạnh, cửa gió cả 3 hàng ghế. Một số tiện ích nội thất khác như khởi động bằng nút bấm, ghế da trên bản V, vô-lăng da và gỗ, chỉnh điện 4 hướng, có nút bấm kết nối điện thoại Bluetooth rảnh tay, đồng hồ hiển thị kiểu mới TFT 4,2 inch. Màn hình thông tin giải trí cảm ứng, có thêm tính năng ra lệnh bằng giọng nói. Hệ thống âm thanh trang bị đầu DVD, 1 đĩa, 6 loa, kết nối Bluetooth, HDMI/Wifi.
Tiện nghi nâng cấp lớn nhưng động cơ không đổi mới, vẫn là loại 2 lít 4 xi-lanh mang mã 1TR-FE, nâng cấp công nghệ điều khiển van biến thiên VVT-i thành loại kép Dual VVT-i. Công suất đạt 137 mã lực tại vòng tua máy 5.600 vòng/phút, mô-men xoắn cực đại 183 Nm tại 4.000 vòng/phút, sức mạnh chỉ nhỉnh hơn vài mã lực so với bản cũ.
Xe có ba phiên bản là V, G và E. Bản E sử dụng hộp số sàn 5 cấp, bản G và V cao cấp hơn sử dụng hộp số tự động 6 cấp thay cho loại 4 cấp như hiện nay. Toyota không phân phối bản J như thế hệ trước, vốn được ưa chuộng đặc biệt bởi các hãng taxi. Hãng xe Nhật cho biết điều tra cho thấy khách đi taxi muốn được phục vụ bằng xe tiện nghi hơn nên bản E phù hợp hơn J, đồng thời bản E có giá bán lại cao hơn, mang về lợi ích cho hãng taxi.
Innova ở bản G và E trang bị an toàn cơ bản 3 túi khí và gồm chống bó cứng phanh ABS, phân phối lực phanh điện tử EBD, hỗ trợ phanh khẩn cấp BA và cân bằng điện tử VSC. Phiên bản cao cấp nhất V có 7 túi khí và thêm cân bằng thân xe điện tử VSC, hỗ trợ khởi hành ngang dốc HAC, đèn báo phanh khẩn cấp EBS.
Toyota trang bị cho Innova mới như một chiếc sedan hay crossover đi theo khuynh hướng "option hoá". Nhưng để sở hữu những trang bị này trên Innova thì mức giá không còn dễ chịu như thế hệ trước.
Innova thế hệ mới có giá 793 triệu cho bản E, 859 triệu bản G và 995 triệu bản V. So với thế hệ trước, mức giá đều tăng lên một bậc. Giá bản E hiện nay bằng bản G trước đây và bản G bằng bản V trước, bản V thì lên gần 1 tỷ. Giá bán này đẩy Innova lên một tầm mới so với các đối thủ Kia Rondo hay Chevrolet Orlando, chỉ có giá xung quanh 700 triệu.
Tầm giá này của Innova có thể sẽ khiến hãng phải chấp nhận "hy sinh" một bộ phận khách hàng kinh doanh vận tải, vốn đặt giá rẻ và khả năng tiết kiệm xăng lên hàng đầu. Đối với khách hàng cá nhân, Innova sẽ lên bàn cân cùng với những Honda CR-V, Mazda CX-5 hay thậm chí Hyundai Santa Fe 5 chỗ, vốn có những trang bị tương tự nhưng thời trang, hợp xu hướng và vận hành năng động hơn.
Toyota kỳ vọng bán khoảng 950 xe mỗi tháng, tức bằng 20% thị trường Indonesia. Tỷ lệ nội địa hóa Innova là gần 40%, đây cũng là mẫu xe có tỷ lệ nội địa hóa cao nhất của Toyota tại Việt Nam, với hệ thống 18 nhà cung cấp linh kiện. Trong khi đó tỷ lệ nội địa hoá của Innova ở Indonesia là 83% với 123 nhà cung cấp.
Thêm ảnh Toyota Innova thế hệ mới tại Việt Nam
Tác giả bài viết: Đức Huy