Cách chữa sỏi thận bằng lá tre
Bộ phận dùng làm thuốc của cây tre là lá tre, hay còn gọi là trúc diệp (chú ý phân biệt với vị thuốc đạm trúc diệp - rễ của cây đạm trúc diệp). Từ thời xa xưa, lá tre đã được ứng dụng làm thuốc.Điều này được ghi lại trong nhiều sách cổ như “Danh y biệt lục” xuất hiện cách đây 1.500 năm.
Dưới góc nhìn của Đông Y, lá tre có vị ngọt nhạt, tính lạnh, hơi cay, có tác dụng thanh nhiệt giải độc, dùng chữa rất nhiều bệnh. Đối với sỏi thận chỉ cần uống nước lá tre hằng ngày, sỏi sẽ dần dần tan ra và đào thải theo đường nước tiểu.
Người bệnh cũng cần chú ý, trong quá trình uống nước lá tre hằng ngày, sẽ thấy bụng dễ chịu hơn nhưng khoảng hơn 1 tháng sau đó, có thể sẽ bị 1 cơn đau dữ dội, kèm theo nôn. Đây là sự vận động của các viên sỏi. Nếu đau quá, người bệnh có thể sử dụng 1 số loại thuốc giãn đường tiết niệu theo chỉ dẫn của bác sĩ. Chỉ 1 lúc sau, sỏi sẽ được đào thải ra ngoài theo đường tiểu.
Phương pháp này khá đơn giản và được nhiều người áp dụng thành công, tuy nhiên tùy thuộc vào kích cỡ sỏi mà thời gian chữa bệnh nhanh hay chậm. Đôi khi có những viên sỏi quá to, dùng nước lá tre khoảng 2 tháng mà sỏi vẫn không đào thải ra được thì người bệnh cần tìm kiếm những giải pháp chữa bệnh khác.
Lá tre là bài thuốc chữa sỏi thận hiệu quả nhưng còn ít người biết đến
Một số bài thuốc khác từ cây tre:
Dự phòng viêm não B: Dùng lá tre, vỏ bí đao, lá sen, rễ cỏ tranh, mỗi thứ 9g, sắc nước uống thay nước trong ngày. Để dự phòng viêm não, mỗi tuần cần uống 1-2 ngày.
Chữa sốt cao, mê man do viêm não: Dùng trúc lịch 30-50g, hòa với nước đã đun sôi, chia ra uống trong ngày.
Chữa ho suyễn, hoặc trúng phong cấm khẩu: Gừng sống giã vắt lấy nước cốt 1 chén, hoà với 1 chén trúc lịch cho bệnh nhân uống dần.
Chữa ho khan: Dùng lá tre 12g, rau má 12g, vỏ rễ dâu 12g, quả dành dành (sao vàng) 8g), lá chanh 8g, cam thảo 6g; nước 700-800ml , sắc còn 250-300ml, chia 2 lần uống trong ngày; cũng có thể tán thô, hãm vào phích uống dần. Dùng cho các trường hợp ho khan, đờm sát, cổ họng khô và ngứa, rêu lưỡi vàng mỏng.
Chữa viêm màng phổi có tràn dịch: Lá tre 20g, vỏ rễ dâu 12g, hạt rau đay 12g, thạch cao 20g, hạt bìm bìm 12g, rễ cỏ tranh 12g, thổ phục linh 12g, bông mã đề 12g. Dùng 600ml nước, sắc còn 200ml; uống hết một lần trước bữa trưa 30 phút. Lại thêm nước, sắc lần thứ hai, uống trước bữa cơm chiều. Cùng với việt điều trị bằng kháng sinh, bài thuốc này có tác dụng hỗ trợ rất tốt.
Chữa mất ngủ, tâm phiền, hồi hộp: Dùng trúc nhự 16g, mạch môn (củ cây tóc tiên) 16g, sắc nước uống trong ngày.
Chữa nấc (do nhiệt): Dùng lá tre 20g, tinh tre 20g, thạch cao (nướng đỏ) 30g, gạo tẻ (rang vàng) 20g, bán hạ 8g, mạch môn (bỏ lõi) 16g, tai quả hồng 10 cái; nước 800ml, sắc còn 300ml, chia 2 lần uống trong ngày. Thuốc này có tác dụng thuận khí, giáng hỏa, thích hợp với chứng nấc do nhiệt - kèm theo các triệu chứng người bứt rứt, khát nước, miệng hôi, tiểu tiện đỏ sẻn, đại tiện táo kết ... Không dùng cho chứng nấc do hàn.
Chữa miệng lưỡi lở loét: Búp tre 15-20g, sinh địa 10g, mộc thông 10g, cam thảo 8g, sắc nước uống thay nước trong ngày. Bài thuốc có tác dụng "thanh tâm trừ phiền", dùng trong trường hợp Tâm kinh thực nhiệt, phiền táo, khát nước, miệng lưỡi lở loét, tiểu tiện vàng sẻn.
Tác giả bài viết: Thu Thảo (T/h)