Trong số đó, thí sinh dự thi chỉ để xét tốt nghiệp THPT là 286.129, chiếm 32% (năm 2015 là 28%).
Nhìn nhận con số này, thầy giáo Bùi Minh Tuấn cho rằng, con số “biết nói” trên cho thấy, đang ngày càng có nhiều thí sinh không mấy “mặn mà” với cổng trường đại học, cao đẳng do vấn đề việc làm sau khi ra trường gặp nhiều khó khăn.
Tòa soạn trân trọng gửi tới độc giả ý kiến của thầy.
Từ trước tới nay, trong quan niệm của nhiều người, cổng trường đại học là nơi “lý tưởng” để lập thân, lập nghiệp.
Do đó, tỷ lệ gần 32% học sinh lớp 12 trên cả nước quyết định không tham gia xét tuyển vào các trường Đại học, Cao đẳng năm 2016 đã trở thành một “hiện tượng” thu hút sự chú ý của dư luận.
Lâu nay, trước mỗi mùa thi, việc phải cố gắng để trở thành sinh viên đã tạo áp lực lớn đối với mỗi học sinh lớp 12, bởi đó là cách làm rạng danh gia đình, dòng họ.
Học sinh không còn “mặn mà” với cổng trường đại học vì viễn cảnh thất nghiệp (Ảnh minh họa trên giaoduc.net.vn)
Nhiều bậc phụ huynh quan niệm rằng, chỉ khi con em mình được học đại học thì lúc đó họ mới có điều kiện “nở mày, nở mặt” với đời.
Và thế là, họ bắt buộc, dồn ép con em phải học, phải thi, phải đỗ đại học bằng bất cứ giá nào. Nhiều vị phụ huynh cứ ép con phải học mà không quan tâm đến sức học, năng lực, sở trường của chúng.
Một số phụ huynh lại can thiệp quá sâu vào việc lựa chọn ngành nghề bằng cách bắt buộc con em phải đăng ký dự thi vào trường này, ngành nọ mà không để ý xem liệu khả năng của con em mình có đạt được hay không.
Nhiều học sinh có lực học làng nhàng, dù biết rõ rằng sức học của mình không đủ để “trèo cao” nhưng vẫn “nhắm mắt đưa chân” cốt chỉ để làm yên lòng gia đình.
Mặt khác, cơ chế tuyển dụng bấy lâu nay còn dựa nhiều vào các tiêu chí về bằng cấp. Theo đó, bằng cấp càng cao, cơ hội được tuyển dụng, đề bạt càng lớn.
Điều này đã góp phần tạo nên tâm lý sính bằng cấp trong xã hội, dẫn tới việc trong một thời gian dài, nhiều thí sinh đăng ký dự thi để cố gắng giành cho được một “suất” ở giảng đường Đại học.
Tuy nhiên, khi mà số lượng sinh viên ở các trường Đại học, Cao đẳng “tăng dần đều” qua các năm thì số lượng sinh viên ra trường không có việc làm cũng không ngừng tăng lên.
Vừa qua, hội thảo “Đổi mới công tác đào tạo nhân lực cho các khu công nghiệp và khu chế xuất ở Việt Nam” do Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp Bộ GD&ĐT, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, chương trình đổi mới đào tạo nghề tại Việt Nam (GIZ) tổ chức, đã thống kê Quý 1/2016 cả nước có 225.000 người có trình độ cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp.
Con số này khiến cho nhiều người không khỏi giật mình bởi kéo theo đó là sự lãng phí lớn về thời gian, chi phí đào tạo, sinh hoạt, học tập.
Để chu cấp cho con học đại học, nhiều gia đình ở các vùng nông thôn đã phải vay tiền ngân hàng cho con ăn học. Tính trung bình, một cử nhân, kỹ sư tiêu tốn từ 150 – 200 triệu đồng cho cả một khóa học.
Khi ra trường lại không có việc làm nên món nợ vay trang trải việc ăn học cho con từ thời sinh viên đã trở thành gánh nặng lớn đối với không ít gia đình.
Nhiều cử nhân thất nghiệp đã phải giấu bằng Đại học đi học nghề hoặc cất làm kỷ niệm, đi làm thuê ở xứ người để mưu sinh.
Từ thực trạng trên, việc có 32% học sinh cả nước không vào Đại học năm nay có thể xem là tín hiệu tích cực.
Có ý kiến cho rằng: Tỷ lệ trên xuất phát từ hiệu quả của công tác phân luồng, hướng nghiệp diễn ra thời gian qua ở các trường THPT.
Tuy nhiên, theo tôi, nguyên nhân chính bắt nguồn từ việc học sinh đã thực tế và “khôn ngoan” hơn trong việc chọn nghề phù hợp với năng lực của bản thân khi nhận thức được, vào Đại học không phải là con đường duy nhất để lập nghiệp.
Các bậc phụ huynh cũng đã có cái nhìn rộng mở hơn trong việc định hướng tương lai cho con em mình nhất là khi con số cử nhân, thạc sỹ thất nghiệp không ngừng tăng lên trong thời gian qua.
Qua tìm hiểu được biết, trong số gần 32% học sinh cả nước không tham gia xét tuyển vào Đại học, Cao đẳng năm nay, không ít em trong số đó phấn đấu thi đỗ tốt nghiệp, sau đó tham gia học nghề, tìm việc làm hoặc tìm kiếm cơ hội xuất khẩu lao động.
Đây có thể xem là sự lựa chọn phù hợp với thực tiễn về thị trường nguồn nhân lực lao động hiện nay.
Đồng thời, thực tế trên cũng góp phần gửi lời cảnh báo tới các trường Đại học, Cao đẳng về sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng, đào tạo phải gắn liền với nhu cầu của xã hội mới có thể thu hút được người học.
Tác giả bài viết: Bùi Minh Tuấn